Các biện pháp lai cải tạo giống

Phát triển giống bò sữa ở Việt Nam - phần 2

2.3 Mục tiêu phát triển đàn bò sữa từ 2001-2010

Mục tiêu tổng quát của chính phủ Việt Nam là đạt được tổng đàn bò sữa 200 ngàn con vào năm 2010 và 600 ngàn con vào năm 2020. Sản lượng sữa sản xuất trong nước đạt 350 ngàn tấn vào năm 2010 và 1 triệu tấn vào năm 2020 (bảng 2)

Bản 2. Kế hoạch sản xuất sữa đến 2020 

Năm

Mức tiêu thụ sữa kg/người

Sữa sản xuất trong nước (%)

Sản xuất lượng sữa (ngàn tấn)

Đàn bò sữa (ngàn con)

2000

6,5

8,0

55

35

2005

9,0

21

165

100

2010

10,0

40

350

200

2020

12,0

90

1000

600

Để phát triển chăn nuôi bò sữa ở nước ta cần tiến hành đồng thời các yếu tố liên quan, có thể phân chúng thành 4 nhóm chính như sau:

1. Nhóm yếu tố kĩ thuật gồm:

·     Giống bò: Trước hết phải tạo được giống bò sữa năng suất cao (trên 3500 kg một năm-không phải 1 chu kì), chịu được điều kiện khí hậu nóng ẩm và thích nghi tốt với thức ăn thô chất lượng thấp.

·     Thức ăn: Giải quyết đủ cỏ xanh và thức ăn thô quanh năm cho bò sữa. Thức ăn thô, thức ăn tinh phải có chất lượng tốt và giá cả hợp lí

·     Quản lí của nông dân: Nông dân nuôi bò sữa là những người ít vốn, ít kiến thức và kĩ năng thực hành nuôi bò sữa theo khoa học. Cần đào tạo họ những kiến thức căn bản về quản lí kĩ thuật, quản lí sản xuất, quản lí sức khỏe gia súc...

·     Các dịch vụ kĩ thuật như gieo tinh nhân tạo, tiêm phòng, chữa bệnh bò sữa phải có sẵn và do nhà nước quản lí để nâng cao hiệu quả chăn nuôi.

2. Nhóm yếu tố tổ chức bao gồm

·     Các tổ chức và hoạt động hỗ trợ người chăn nuôi như: Câu lạc bộ, Hội chăn nuôi, HTX sản xuất sữa, các trạm thu mua, các cơ sở chế biến và tiêu thụ sữa

·     Các hoạt động tín dụng cung cấp nguồn vốn cho người chăn nuôi

·     Hoạt động huấn luyện, hoạt động khuyến nông và chuyển giao kĩ thuật phù hợp

3. Nhóm yếu tố chính sách của chính phủ

·     Các chương trình phát triển bò sữa

·     Chính sách về các hoạt động hỗ trợ cho nghiên cứu, khuyến nông, thuế đất, thuế nhập khẩu con giống và thiết bị chăn nuôi, cơ sở hạ tầng vùng chăn nuôi tập trung...

·     Chính sách đối với các nhà máy sữa về tỷ lệ sữa nhập và sữa tươi sản xuất trong nước

·     Chính sách khuyến khích tiêu thụ sữa (sữa học đường)

·     Thành lập cơ quan chuyên trách của nhà nước lo việc sản xuất và phát triển sữa

4. Nhóm yếu tố về kinh tế xã hội

·     Giá thành sản xuất sữa có quan hệ đến giá đất lập trại, giá bò giống, chi phí đầu vào, thu đầu ra và cuối cùng là lợi nhuận từ sản xuất sữa so với ngành sản xuất khác

·     Cơ sơ vật chất cho chăn nuôi như đất đai, nguồn vốn, lao động gia đình

·     Kiến thức và kĩ năng thực hành của người nông dân

Thiếu 1 trong các yếu tố trên đều hạn chế đến kết quả của bất kì chương trình nào về phát triển bò sữa. Trong khuôn khổ bài viết này chỉ tập trung thảo luận một vài giải pháp chính về giống bò sữa, hiện đang được coi là khủng hoảng nhất hiện nay.

2.3.1 Giải pháp về lai tạo giống bò sữa

Giống bò sữa nào cho Việt Nam?

Tất cả các nước nhiệt đới nóng ẩm đều gặp khó khăn khi xác định con đường tạo giống bò sữa thích hợp cho nước mình (Williamson, G and Payne, W.J.A: 1978). Những nước nóng nhưng khô như vùng Ai cập, Trung Đông, Florida (của Mỹ ) thì sử dụng phương pháp lai cấp tiến giữa bò HF với bò địa phương để tạo ra con lai tỷ lệ cao máu bò HF hoặc nuôi HF thuần (Mason, I.L and Buvanendran. V. 1982). Lai tạo và chọn lọc nghiêm ngặt trong một chương trình giống có định hướng trong nhiều thập niên liên tục và họ đã có được giống bò sữa HF của nước mình. Bò sữa của Israel là một thí dụ.

Những nước nóng ẩm và đang phát triển như ấn Độ, Thái Lan, Việt Nam... công tác lai tạo giống bò sữa vẫn còn đang bế tắc, chưa có nước nào thành công tạo ra giống bò sữa mới cho nước mình. Kinh nghiệm từ ấn độ trong cải tiến bằng giống ôn đới và ở Thai lan trong cải tiến giống địa phương bằng giống bò Red Danish đã cho thấy tỷ lệ chết và mắc bệnh cao, năng suất thấp ở những gia súc được cải tiến nhiều. Tỷ lệ máu bò Red Danish tối ưu trong trường hợp này là bằng hay dưới 75%. Trong điều kiện chăm sóc tốt năng suất sữa tăng lên theo tỷ lệ tăng máu bò Red Danish (Mason, O. 1976).

Vào những năm 1980 - 1990, một giống bò sữa được cho là phù hợp đối với các nước khí hậu nóng ẩm và trình độ đầu tư kĩ thuật thấp đó là giống AFS. Trong điều kiện nhiệt đới ẩm chúng cho năng suất cao hơn bò Châu Âu (R.H.Hayman. l984). Những năm gần đây, giống AFS kém được ưa chuộng dần, có lẽ vì năng suất không cao và hình dạng cũng như màu sắc không đồng nhất. AFS có thể là một bài học cho chúng ta phải suy nghĩ trong quá trình lựa chọn và thực hiện một chương trình giống bò sữa cho Việt Nam.

Trước hết ta hãy điểm qua công tác lai tạo giống bò sữa ở các nước nhiệt đới và những giống bò lai nào đã thành công ở những nước nhiệt đới?

Có 2 cách lai tạo đã được sử dụng: Sử dụng đực ôn đới lai với cái địa phương hoặc ngược lại.

Tạo giống mới bằng con đường sử dụng đực ôn đới lai cho cái địa phương

Đã tiến hành ở Nam Mỹ, ấn Độ, Sri Lanca nhưng chưa nước nào thành công.

Giống Kamaduk ở ấn độ có 1/4 máu Brown swiss. 1/4 máu Friesian; 1/4 Jersey và 1/4 máu bò địa phương, (công việc này mất 15 năm và sau đó bắt đầu việc kiểm tra đời con trên diện rộng. Năng suất?. Số lượng đàn hiện tại? Không có số liệu).

Giống Karan Swiss (ở ấn Độ) tạo ra từ đực Brown Swiss và cái Sahiwal: mỗi giống 50% máu. Giống Guandini có 50-62% máu bò Brown Swiss (M. Rao and D. Sundaresan, 1981). Năng suất và số lượng các giống này đến nay vẫn chưa thấy số liệu công bố. Rõ ràng là việc lấy tên cho một giống mới dễ hơn nhiều so với việc duy trì nó (Manson, 1974)

ở Sri Lanca, dùng đực HF và Jersey lai với cái địa phương đã được sind hoá và Sahiwal hoá nhưng chưa xác định được mức độ lai máu thích hợp (Buvanendran.  and Mahadevan. P. 1975). Kết quả nghiên cứu của Wijeratne, 1970 cho thấy năng suất sữa của đàn F2 (3/4HF) thấp hơn so với F1.

ở Thái lan một kết luận là bò lai có 75% máu bò Red Danish là tối ưu (Madalena, 1981)

ở Việt Nam cũng có một kết luận là con lai 75% máu Friesian là phù hợp (Lê xuân Cương và ctv 1994)!

Tạo giống bằng con đường sử dụng đực Zebu lai với cái Châu Âu tiến hành ở Chân Mỹ và úc

ở Jamaica từ năm 1910 sử dụng bò đực Sahiwal phối với bò cái châu Âu (Jersey, Friesian) và đến năm 1952 cho ra giống Jamaica Hope có 75% máu Jersey; 20% máu Sahiwal và 5% Friesian, năng suất khoảng 2700kg/chu kì.

ở úc có 2 giống mới đã tạo ra: AMZ tạo ra từ đực Sahiwal và cái Jersey. AMZ hiện nay có khoảng 30-35% máu bò châu Âu và không ổn định về màu lông và hình dạng. Năng suất sữa khoảng 2000-3200kg/chu kì. Cao nhất 4850kg. Giống AFS là giống kháng ve, tạo ra từ đực Sahiwal và cái Friesian. Tại cực bắc Queensland, năm 1963 chính phủ úc bắt đầu bằng chương trình tạo giống bò sữa năng suất cao, kháng ve trong môi trường nhiệt đới. Giống được thực hiện bằng lai giữa bò cái Friesian và bò đực Sahiwal. Những con bò lai F1 cho phối với nhau để tạo ra đàn hạt nhân AFS chứa 50% máu Friesian và 50% máu Sahiwal. Đàn quốc gia này được dùng để tạo bò đực cho kiểm tra đời con và bò cái cho đàn sản xuất sữa. Chỉ những con cái tốt nhất được giữ lại cho đàn hạt nhân, dựa trên năng suất sữa và kháng ve. Bò AFS đạt năng suất từ 2400 - 3500kg nuôi trong điều kiện gặm cỏ ở Queensland. Cao nhất 5500kg/chu kì. (G.I. Alexander, G.K.Reason and C.H.Clark, 1984. G.I. Alexander, G. K. Reason, G.M.R. Gale and Clark: 1985). Giống NZFS của New Zealand cũng được tạo ra theo con đường tương tự như AFS của úc.

Nhìn chung cả 2 cách lai tạo trên (đực châu Âu và cái địa phương hay ngược lại thì con lai hay giống mới tạo ra cũng chỉ cho năng suất sữa 2500-3000lít/chu kì. Chưa có giống nào được coi là tiếp ứng yêu cầu  sản xuất sữa của các nước nhiệt đới trong tương lai (A. Chamberlain. 1989).

Việt nam lai tạo bò sữa theo cách sử dụng đực (hoặc tinh bò đực) Friesian lai với cái địa phương đã được cải tiến (cái Lai sind). Có sử dụng một số tinh bò Jersey và Brown Swiss nhưng số lượng không đáng kể. Cách làm này giống với Sri Lanca và giống với cách tạo bò Taylor của ấn Độ vào những năm 1850.

Thực tế trên những đàn được ghi chép cho thấy cả khối lượng và năng suất sữa bò lai giữa các nhóm giống F3 (7/8HF) F2(3/4HF) và F1 (1/2HF) không sai khác nhau nhiều! Khả năng sinh sản thì cái F1 tốt hơn hẳn so với cái F2 và F3, mà sinh sản là điều cần thiết đầu tiên của một bò sữa.

Bò HF thuần nuôi tại Mộc Châu, Đức Trọng cũng chỉ cho năng suất 11,8 - 14,6kg/ngày vắt (Đinh Văn Cải - tập hợp các báo cáo về đàn bò sữa trong nước). Có thể bò HF thuần ta nhập từ rất xa xưa (1970 từ Cu Ba) khi ấy tiềm năng di truyền của đàn HF nói chung còn thấp hơn nhiều so với ngày nay. Bò lai HF của ta khối lượng trung bình 400kg và giả sử nếu đạt 1166lít/100kg khối lượng như bò HF thuần thì năng suất tối đa mong đợi ở bò lai cũng chỉ 4500-4600lít/chu kì (tính trung bình toàn đàn)! Nếu chỉ dừng ở nhóm bò lai năng suất như trên thì ta không thể cạnh tranh giá sữa trên thị trường thế giới, vì vậy hướng lâu dài vẫn phải nghiên cứu lai lạo bò sữa Việt nam theo hướng tăng máu HF để tăng sản lượng sữa đồng thời vẫn giữ được đặc điểm thích nghi trong điều kiện khí hậu nóng.

Kinh nghiệm tạo bò sữa chịu nóng ở Israel

Bò Holstein vẫn được khuyến cáo nuôi ở những vùng có khí hậu lạnh và ôn hoà (nhiệt độ dưới 220C). Những nước nhiệt đới và á nhiệt đới thì khuyến cáo nuôi bò lai có tỷ lệ máu Holstein không quá 3/4. Thế nhưng ở Israel, một nước bán sa mạc, mùa hè rất nóng (max: tới gần 400C) đã nuôi thành công bò Holstein thuần. Năng suất sữa bò Holstein của Israel hiện nay cao nhất thế giới, 10500 kg/305 ngày (Hà lan khoảng 7900kg). Một hợp tác xã Qualia gần biển chết, nơi nhiệt độ mùa hè đạt tới 45-470C, một trại bò 276 con đã cho năng suất 11326kg/ chu kì (năm 1998).

Vào khoảng những năm 1920- 1930 Israel nhập bò đực Friesian từ Hà Lan và Đức về để cải tạo bò địa phương. Năm 1947 nhập bò đực Holstein từ Canada cùng với bò đực con của chúng được sử dụng để gieo tinh nhân tạo. Từ 1950 đến 1962 nhập cả bò đực và hò cái Holstein từ Mỹ. Từ 1963 hầu như toàn bộ bò cái được gieo tinh với những bò đực Holstein sinh ra tại Israel (tạm gọi là đực giống địa phương). Từ 1955 bắt đầu đánh giá sức sản xuất sữa của đực giống qua đời sau. Ngày nay dấu vết bò địa phương không còn nữa mà sau 60 năm tạo giống bò sữa trong điều kiện nóng đã thành công một giống bò Hà lan Israel thích nghi với điều kiện stress nhiệt của khí hậu nóng.

Trong khoảng 10 năm gần đây, Israel đã xuất khẩu tinh dịch bò đực đã đánh giá qua đời sau đến 25 nước trên thế giới. Chủ yếu xuất sang Tây Âu (Tây Ban Nha, Hà Lan, Pháp), sang Đông Âu như Hungary, Bulgari, Nga..., sang châu Phi như nam Phi, Zambia, Kenya... ở châu á có Philippine, Thailand và ấn Độ đã nhập tinh bò đực Israel.

Thử nghiệm nuôi bò sữa thuần chủng (HF và Jersey) tại vùng nóng Việt Nam

Trong định hướng phát triển bò sữa Việt Nam giai đoạn 2002-2010, Bộ NN& PTNT đã "giao cho Viện Chăn nuôi và Viện Khoa học kĩ thuật nông nghiệp Miền nam nuôi thử nghiệm bò sữa ôn đới thuần chủng cao sản tại một số vùng trung du, đồng bằng khí hậu nóng" là một quyết định đúng đắn.

Đề nghị: Giống bò sữa ôn đới thuần chủng cao sản nhập vào Việt Nam tốt nhất là giống đã nhiệt đới hoá, thí dụ từ Israel, Florida (Mỹ). Địa điểm nuôi thử nghiệm ở Miền Bắc là Hà Tây, ở Miền Trung là Bình Định, ở Miền Nam là Bình Dương. Nhập bò phải nhập kèm theo cả công nghệ: làm mát, sản xuất và dự trữ thức ăn xanh, quản lí đàn, quản lí sinh sản.

2.3.2. Giải pháp tăng đầu con.

Năm 1990, chúng ta có tổng đàn 11 ngàn con bò sữa, số bò cái sinh sản 5,6 ngàn con, tổng sản lượng sữa sản xuất từ đàn bò trên đạt 17 ngàn tấn/năm Bình quân năng suất sữa của một cái sinh sản trong một năm gần 3000 kg.

Năm 2000 chúng ta có tổng đàn gần 35 ngàn con, bò sinh sản có 17,5 ngàn con. Tổng sản lượng sữa gần 52 ngàn tấn/năm, như vậy ước tính mỗi bò sinh sản sản xuất ra gần 3000 kg sữa mỗi năm. Như vậy rất có thể trong 10 năm qua năng suất cá thể đàn bò của ta không được cải thiện! Có thể là khi ta cố gắng tăng số lượng đàn bò bằng mọi cách thì đã coi nhẹ công tác chọn lọc nâng cao chất lượng đàn giống? Khi mà bò giống quá đắt thì không ai nghĩ đến loại thải để chọn lọc nâng cao chất lượng con giống cả. Mặt khác công tác quản lí lai tạo, quản lí chất lượng tinh nhập không chặt trẽ cũng góp phần làm giảm chất lượng con giống.

Giai đoạn tới, mục tiêu tăng đầu con phải kết hợp với tăng năng suất cá thể, vì vậy phải chú ý chọn lọc và kiên quyết loại thải những bò năng suất thấp.

Nếu muốn đạt 200 ngàn con tổng đàn với chất lượng con giống được cải tiến hơn thì phải tích cực lai tạo bò lai sữa từ đàn cái lai Sind và kết hợp với nhập khẩu bò sữa.

Tăng đàn tự nhiên từ đàn bò lai sữa hiện có

Phương án tăng đàn ở bảng 2 được tính toán dựa trên một số thông số kĩ thuật sau:

Đàn cái sinh sản loại thải 20% mỗi năm (trung bình 4,2 lứa/đời bò)

Bê cái từ sơ sinh đến 1 năm tuổi chết và loại thải 10%

Bê cái tơ từ 1-2 năm tuổi loại thải 5%

Bê cái hậu bị lên cái sinh sản loại 10% sau khi sanh lứa đầu do năng suất kém.

Với tỷ lệ chọn lọc và loại thải như trên thì đến cuối năm 2010 từ đàn bò sữa gốc hiện có sẽ tăng lên đạt trên 95 ngàn con (bảng 5 phụ lục).

Tăng đàn bò lai sữa từ lai tạo bò HF với bò nền lai Sind

Phương án lai tạo bò sữa từ đàn bò cái lai Sind phải dựa trên chất lượng đàn cái nền đủ tiêu chuẩn về trọng lượng, ngoại hình và các yếu tố kinh tế xã hội khác của địa phương. Vì thế khả năng lai tạo này cũng chỉ có giới hạn. Kế hoạch số lượng bò cái lai Sind được phối tinh bò Hà Lan mỗi năm trung bình 17,7 ngàn con và tổng 10 năm là 177 ngàn con (bảng 2). Theo phương án này thì trong vòng 10 năm tới ta tạo ra một số lượng bò lai sữa trên 96 ngàn con từ nguồn lai tạo với bò lai Sind.

Về tỷ lệ máu lai thích hợp: Bò có máu lai thích hợp nhất cho một khu vực là bò có tỷ lệ gen thích hợp từ các giống địa phương đã thích nghi và tỷ lệ gen từ các giống ôn đới có năng suất cao. Tỷ lệ gen thích hợp này thay đổi theo mức độ khắc nghiệt của môi trường, trình độ nuôi dưỡng, quản lí. Có thể chia thành 3 mức độ sau về tiềm năng nuôi bò sữa:

Khu vực có tiềm năng chăn nuôi bò sữa thấp, thí dụ như các khu vực khô hạn bán sa mạc, mang tính thôn dã cao hay các khu vực ô nhiễm nặng. ở những nơi này nguồn thức ăn cho bò chủ yếu là rơm rạ và một số sản phẩm phụ xay xát, thì không nên nuôi bò sữa.

Khu vực có tiềm năng chăn nuôi bò sữa trung bình, thí dụ như vùng đồng bằng, trung du có đồng cỏ bán khô hạn. Các trang trại ở các khu vực nóng, mưa, ẩm ở đó sữa được sản xuất để bán và nuôi bê để lấy thịt và cày kéo, thì có thể nuôi bò lai 1/2 đến 7/8 máu bò HF. Tỷ lệ máu bò ôn đới trong con lai phụ thuộc vào điều kiện khí hậu, chăm sóc nuôi dưỡng và quản lý của địa phương, nhưng thường trong phạm vi 50-75%.

Khu vực có tiềm năng cao về chăn nuôi bò sữa, thí dụ vùng cao nguyên, có đồng cỏ có lượng mưa trung bình. Khu vực có lượng mưa trên 760mm và độ cao 1525m, là thích hợp cho các bò HF thuần. Cần nghiên cứu nhân thuần bò HF ở những vùng này.

Tăng đàn bò sữa từ nhập bò HF thuần và bò lai sữa

Kinh nghiệm cho thấy, ở những khu vực mà khí hậu không quá khắc nghiệt và mức độ chăm sóc nuôi dưỡng tốt thì các giống Châu Âu rất dễ dàng cho trên 3000 lít sữa/năm/con từ các nguồn thức ăn nhiệt đới có sẵn. Tuy nhiên năng suất sữa sẽ bị hạn chế do nóng, ẩm độ không khí và tiềm năng sẽ chỉ đạt được khi nuôi trong điều kiện làm mát nhân tạo.

Gần đây một báo cáo của Kabuga cho thấy ở khu rừng ẩm Ghana bò Friesian cho 4450 lít sữa/322 ngày vắt sữa và 5 bê trong một đời bò. Trong số các giống Châu Âu, Jersey thường được coi là giống chịu nóng nhất ở khu vực nhiệt đới ẩm. Các giống như Jersey, Friesian, Brown Swiss và Red Danish được sử dụng thành công nhất, khi lai với giống địa phương. ở vùng cao, khô các giống trên ít sai khác nhau về năng suất. Tuy nhiên bò Friesian thường có năng suất vượt bậc so với giống khác về tổng sản lượng sữa, trong khi bò Jersey có năng suất sữa tương đương bò Friesian trên cơ sở so sánh về thể trọng. Kích thước núm vú bò Friesian thường được nông dân ưa chuộng cho cả về vắt sữa bằng tay và bằng máy, và chúng còn có đặc tính cho thịt tốt. Bò Brown Swiss thường được dùng như giống kiêm dụng sữa thịt ở Châu Mỹ Latinh, nhưng chúng không có tiềm năng chọn lọc như giống Friesian. Mỗi khi chọn giống cần phải nhớ rằng con đực phải có tiềm năng di truyền về sữa lớn ở khu vực nhiệt đới. Những con đực tốt nhất ở ôn đới không luôn luôn là tốt nhất ở nhiệt đới.

Kinh nghiệm cho thấy, đối với bò thuần ôn đới nhập vào vùng nhiệt đới, nếu bất kì một yếu tố quản lí chăm sóc nuôi dưỡng nào bị vi phạm thì tỷ lệ thất bại sẽ rất cao. Nhập giống Châu Âu vào khu vực nóng ẩm cao, gió mùa sẽ dẫn đến tỷ lệ chết lớn. Sau một thời gian thích nghi năng suất sẽ được cải thiện song chỉ ngang mức độ với bò lai. Sinh sản kém và tỷ lệ bê chết ở bò thuần cao hơn nhiều so với bò lai. Bất kỳ người nào có ý định nhập giống ôn đới vào ngay cả vào các trang trại phát triển tốt cần tham khảo bài viết của Wilkins, trong bài này nêu một số kinh nghiệm về những tai biến khi nhập bò Friesian và bò Brown Swiss vào Bolivia. Trong một đợt nhập 190 bò sữa Friesian vào một trại phát triển tốt, trong năm đầu tiên có 40 bò cho sữa và 18 bê bị chết và năng suất sữa trung bình chỉ 3,5 lít/ngày/ bò.

Cũng còn nhiều trường hợp thất bại khác nhưng không thông báo, vì vậy không nên nhập một số lượng lớn bò cái ôn đới, đặc biệt vào các vùng khí hậu nóng ẩm. Có thể chỉ nhập một số lượng hạn chế để gây dựng các đàn hạt nhân, nhưng dưới điều kiện quản lý, chăm sóc và nuôi dưỡng chặt chẽ. Để bò thích nghi được tốt, đối với bò cái nên nhập bò cái tơ trước tuổi phối giống. Chi phí chăn nuôi bò ôn đới thường cao do vậy cải thiện bò địa phương từng bước bằng cách nhập tinh bò đực có chất lượng tốt là con đường rẻ tiền, ít bị thất thu.

Vì mục đích công tác giống và mục đích sản xuất sữa trước mắt, phương án nhập bò sữa cũng được đặt ra. Hai đối tượng bò giống sẽ được nhập đó là bò sữa thuần (HF và Jersey) và bò lai sữa.

Nhập bò cái HF thuần cao sản với số lượng ít nhằm giải quyết mục tiêu tạo đàn hạt nhân phục vụ mục đích nhân giống thông qua kỹ thuật cấy chuyển phôi để sản xuất bò đực HF thuần cho sản xuất tinh là chính. Coi trọng công tác tạo và tuyển chọn tạo bò đực lai HF từ con mẹ và đực giống xuất sắc. Đánh giá cá thể và đánh giá qua đời sau đực thuần HF và đực lai HF sinh tại việt Nam. Nên nhập bò HF thuần đã thích nghi với khí hậu nhiệt đới, nguồn gốc có thể là Israel, Florida. Bò này sẽ được nuôi ở những cơ sở giống do nhà nước quản lí và ở đó hội tụ mọi điều kiện tốt nhất về tiểu khí hậu chuồng trại, thức ăn nuôi dưỡng, trình độ kĩ thuật và quản lí của cán bộ.

Có thể nhập cả giống bò lai AFS của úc hay NZFS của New zealand. tương đương như bò lai F1, F2 của ta hoặc nhập bò HF thuần chất lượng trung bình của úc với mục đích khai thác sữa, đáp ứng nhu cầu con giống bò sữa cho những vùng có tiềm năng chăn nuôi trung bình. Tuy vậy điều quan trọng hơn là phải xem xét hiệu quả sản xuất sữa trên đàn bò nhập, lợi nhuận của người chăn nuôi chứ không phải số lượng đầu con theo ý chủ quan của người quản lí. Theo phương án này thì từ năm 2002 đến 2010 mỗi năm nhập 500 bò cái tơ, tổng cộng 4500 con trong đó có khoảng 500 bò sữa thuần (HF và Jersey) cao sản.

 

Nguồn: vcn.vnn.vn
Ý kiến của bạn
Tên của bạn * :
E-mail * :
Tiêu đề * :
Nội dung * (Bạn vui lòng gõ tiếng việt có dấu):
 
Mã bảo mật * :   
   
Bài viết khác