Quản lý chăn nuôi bò sữa

Các loại bệnh trên bò sữa

1. Các bệnh truyền nhiễm

1.1.Một số  bệnh truyền nhiễm chính có thể lây từ bò sang người .

a. Bệnh lao (Tuberculosis)

Bệnh  lao là bệnh truyền nhiễm mãn tính của nhiều lòai động vật và người, gây ra do bởi vi khuẩn lao (Mycobacterium tuberculosis). Bò mắc bệnh này do nuôi dưỡng kém, ít được vận động, chuồng trại dơ bẩn tối tăm ít ánh sáng. Bê bú sữa của những bò mẹ mắc bệnh lao thì càng dễ  mắc bệnh lao.

 

Bò có thể mắc bệnh lao ở các lọai: lao phổi, lao hạch, lao vú ,lao dịch hòan và lao đường tiêu hóa. Khi mắc bệnh, bò có những biểu hiện như sau: sốt nhẹ,kéo dài và gián đọan, sức khỏe sút kém, thể trạng giảm, bò ốm dần, thường bị chướng hơi. Tùy theo lọai bệnh mà có những biểu hiện khác nhau. Bò lao phổi thường ho khan, thở khó, ngày càng gầy yếu, ủ rũ và chết do kiệt sức. Các loại  lao khác thì khó phát hiện hơn. Lao vú có thể bị lầm lẩn với viêm vú nếu không có biện pháp chẩn đoán  đúng.

Biện pháp chẩn đoán  bệnh lao thông thường nhất là chẩn đoán bằng khuẩn lao tố (Tuberculin). Người ta cạo lông chỗ tiêm, rồi tiêm 0,2 ml Tuberculin vào trong da. Sau 72 giờ đọc kết qủa, dựa vào hiệu số tăng độ dày của da: tăng /3,5 mm là mắc bệnh (dương tính); tăng từ 2,5-3,4 mm là nghi ngờ; dưới 2,5 mm là không bệnh (âm tính).

Trong thực tế chăn nuôi hiện nay, với  các chương trình kiểm sóat bệnh lao, khi bò mắc bệnh thì loại  thải ngay để tránh lây nhiễm sang gia súc khác., từ đó giảm tỉ lệ bò mắc bệnh trong đàn .

Biện pháp phòng bệnh hữu hiệu nhất là nuôi dưỡng bò tốt, hợp vệ sinh, hàng năm chẩn đoán bằng Tuberculin để loại thải những bò bệnh. Chuồng trại cần tẩy uế định kỳ để hạn chế bệnh lao. Người vắt sữa và người chăm sóc bò nên định kỳ khám bệnh .Người mắc bệnh  lao không được tiếp xúc với bò sữa và sữa.

b. Bệnh xoắn trùng (Leptospirosis)

 

Bệnh xoắn trùng (bệnh Lepto) là bệnh truyền nhiễm ở  nhiều lòai gia súc và người, do vi trùng Leptospira gây ra (có nhiều chủng). Bệnh ở chó, bò, heo, người là do Leptospira icterohemorrhagiae. Bò bị bệnh là do bị  lây lan từ gia súc bệnh, các lọai gậm nhấm mang nhiều mầm bệnh. Xoắn trùng  lepto lây lan qua đường da, màng niêm mạc, đường tiêu hóa (thức ăn, nước uống).

Khi mắc bệnh, bò có những triệu chứng như sốt cao, bỏ ăn, đái ra máu (màu cà phê), đôi khi  sữa có màu hồng, các vùng niêm mạc và phân vàng như nghệ. Bò mắc bệnh thường bị sẩy thai, lượng sữa sụt giảm.

Biện pháp chẩn đóan thông thường là xem xét các triệu chứng lâm sàng nhưng phải để ý rằng bệnh này rất  dễ lầm lẩn với các bệnh ký sinh trùng đường máu và sẩy thai do các nguyên nhân khác. Vì vậy để chính xác, người ta thường áp dụng các biện pháp chẩn đóan trong phòng thí nghiệm như soi kính hiển vi, phân lập, chẩn đóan huyết thanh học, phản ứng vi ngưng kết , kết tan…

Khi bò mắc bệnh có thể điều trị bằng kháng sinh hoặc  huyết thanh Lepto . Tốt nhất là nên báo với cán bộ thú y để điều trị có kết quả tốt hơn .

Để phòng bệnh Lepto cần giữ vệ sinh chuồng trại sạch sẽ, khô ráo, diệt chuột, và cho bò uống nước sạch, ăn sạch. Không mua bò ở những nơi nhiễm bệnh (khi mua cần có giấy chứng nhận sức khỏe của bò). Tiêm phòng vaccin  để phòng bệnh. Người tiếp xúc với bò sữa cần có biện pháp bảo hộ cần thiết ( đi ủng, mang găng tay) và định kỳ khám bệnh.

c. Bệnh sẩy thai truyền nhiễm ( Brucellosis)

 

Bệnh do vi trùng Brucella gây ra (có nhiều chủng). Bệnh ở bò là do  Brucella abortus bovis. Nguồn lây bệnh là từ các gia súc mắc bệnh thông qua sữa, nhau thai, tinh dịch, máu và các chất dịch của đường sinh dục.

Khi mắc  bệnh, bò thường bị viêm và hoại  tử nhiều bộ phận phủ tạng, đặc biệt là tử cung, vì vậy thường gây sẩy thai, đẻ non. Sẩy thai thường xảy ra vào tháng thứ sáu đến tháng thứ tám. Ngoài ra, còn thấy bò có thể  bị viêm khớp, sót nhau.

Biện pháp chẩn đoán  lâm sàng là hiện  tượng sẩy thai liên tiếp, thường vào thời gian cuối của thai  kỳ. Khi nghi ngờ, cần lấy mẫu bệnh để kiểm tra vi trùng và huyết thanh học tại phòng chẩn đoán , xét nghiệm của các trạm thú y. Phản ứng ngưng kết chậm trong ống nghiệm (Phản ứng Wright) là biện pháp chẩn đoán  phổ biến, thường được áp dụng kiểm tra định kỳ để phát hiện bò mắc bệnh.

Khi bò mắc bệnh rất khó điều trị và tốn kém. Vì vậy, biện pháp tốt nhất  là xử lý loại thải bò bệnh để tránh lây lan .

Để phòng bệnh, cần nuôi dưỡng bò đúng phương pháp, chuồng trại sạch sẽ, hạn chế cho bò đực nhảy trực tiếp, kiểm tra định  kỳ để phát hiện bò bị bệnh và loại  thải. Có thể tiêm phòng vaccin để phòng bệnh  cho bê cái từ 4-8 tháng tuổi.

1.2. Các bệnh truyền nhiễm cần tiêm phòng định kỳ theo pháp lệnh  Thú Y

a.Bệnh tụ huyết trùng trâu bò

 

Bệnh tụ huyết trùng (còn gọi là bệnh toi), gây ra bởi vi trùng Pasteurella muntocida. Bệnh thường xảy ra quanh năm nhưng tập trung vào lúc chuyển mùa, từ mùa nắng sang mùa mưa va ømùa  mưa sang muà nắng.

Bò mắc bệnh thường sốt cao, lờ đờ, mệt mỏi, bỏ ăn,ngừng nhai lại, nước bọt chảy thành sợi quanh miệng, chướng hơi và hầu sưng to làm bò khó thở (thè lưỡi để thở). Ở thể cấp tính, bò chết rất nhanh. Toàn thân co giật, bụng trương to, mắt trợn ngược, lưỡi thè ra (do khó thở). Nếu phát hiện sớm, có thể điều trị bằng kháng sinh và một số thuốc trợ sức, kết hợp với điều trị bệnh chướng hơi.

Biện pháp phòng bệnh chủ yếu là tiêm phòng vaccin. Vaccin được sử dụng là vaccin tụ huyết trùng trâu bò . Liều tiêm 2 ml/con sử dụng cho bê từ 4 tháng tuổi trở lên. Tiêm phòng vào các thời điểm chuyển mùa (tháng 3-4 và tháng 9-10). Vaccin có hiệu lực miễn dịch 5-6 tháng. Ngoài   ra, cần phải phòng bệnh bằng các biện pháp vệ sinh nuôi dưỡng chăm sóc, chuồng trại

c.Bệnh lở mồm long móng (FMD)

 

Bệnh lở mồm long móng là bệnh truyền nhiễm gây ra bởi siêu vi trùng (virus) ( có 7 typ như: O,A,C,SAT1,SAT2,SAT3 và Asia1 ) và các typ này lại chia thành nhiều chủng khác nhau ví dụ O1,O2,O3…..) Nguồn lây bệnh chủ yếu là từ các chất bài tiết của bò mắc bệnh ( như nước dãi, nước tiểu, phân, máu……)

Bò mắc bệnh thường bỏ ăn, ủ rũ, sốt cao, đi đứng khó khăn . Biểu hiện rõ nhất là những mụn nước mọc lên ở vùng niêm mạc miệng môi, lợi và các chỗ da mỏng (kẻ chân, bờ móng, vú…) làm cho bò bỏ ăn, đi đứng khó khăn. Sau đó các mụn này vỡ ra và tạo nên những vết loét, tuột móng chân . Bò mắc bệnh đôi khi bị sẩy thai. Khả năng sản xuất sữa bị giảm. Bê mắc bệnh thường rất dễ chết do không ăn được thức ăn, viêm ruột cấp tính, ỉa chảy nặng, xuất huyết đường tiêu hóa, viêm phổi, cơ tim viêm có hình vằn hổ. Bê thường  chết trong vòng 2-3 ngày.

Đây là bệnh do virus gây ra nên không có thuốc điều trị đặc hiệu. Khi bò bệnh , chủ yếu là chữa phụ  nhiễm vào vết lở loét do vỡ các mụn nước. Nếu phát hiện sớm và kịp thời chữa trị thì bệnh sẽ lành, nhưng bò sẽ trở thành vật mang vi  trùng và liên tục bài thải virus ra môi trường trong thời gian dài. Rửa sạch các vết thương hàng ngày bằng thuốc tím và bôi các thuốc kháng sinh. Cách ly các bò bệnh để tránh lây lan.

Biện pháp phòng bệnh chủ yếu là tiêm phòng. Cần tiêm phòng nhắc lại và sử dụng lọai vaccin phù hợp với chủng virus (siêu vi trùng) tại địa phương. Loại vaccin sử dụng cho trâu bò là loại  keo phèn. Tốt nhất là tham khảo ý kiến của cán bộ thú y để có biện pháp tiêm phòng phù hợp nhất.

Khuyến cáo về tiêm phòng bệnh lỡ mồm long móng :
  • Tiêm lần đầu cho bê 4-5 tháng tuổi và tiêm mũi thứ hai vào một tháng sau đó,
  • Đối với bò cần tiêm phòng ít nhất 2 lần/năm ( tốt nhất là 4 tháng tiêm phòng một lần tức là 3 lần năm) để  tăng cường mức độ miễn dịch, tạo sự an toàn cao và ổn định
2.  Bệnh sinh sản thường gặp ở bò sữa

2.1. Bệnh viêm vú (Mastitis)

 

Đây là loại bệnh phổ biến trên bò sữa , dễ lây lan và gây thiệt hại về kinh tế rất lớn vì nó làm giảm sản lượng sữa và chất lượng sữa. Bệnh gây ra do vệ sinh chuồng trại, vệ sinh vắt sữa không tốt, tạo điều kiện cho các vi khuẩn ( như liên cầu khuẩn, tụ cầu khuẩn, song cầu khuẩn hay trực khuẩn gây mủ ) hay nấm Candida albicals xâm nhập vào bầu vú và gây bệnh. Sữa là môi trường rất tốt cho các loại vi khuẩn trên phát triển.

Bệnh viêm vú thường có  hai thể :
  • Thể cấp tính :
Người ta chia bệnh viêm vú thể cấp tính làm 4 lọai:

a. Viêm vú thể tương  mạc: vú bị sưng ở một thùy hay toàn  bộ bầu vú . Khi ấn mạnh tay vào bầu vú bò bị đau, lượng sữa giảm rõ rệt, sữa loãng và có hạt lổn nhổn.

b. Viêm vú thể Cata: đặc trưng là tế bào thượng bì bị tróc ra, ở những ổ viêm có dịch thấm xuất. Sữa bị cặn hoặc cục sữa vón do dịch thẩm xuất và bạch cầu. Thể viêm vú này thường không làm bầu vú bị sưng nhưng làm cho núm vú tăng thể tích ( to ra) do biểu bì dầy lên.

c. Viêm vú có mủ: biểu hiện đặc trưng là vú có mủ và dịch thẩm xuất. Bò sốt cao, mệt mỏi, bỏ ăn; Bầu vú bị sưng đỏ, nóng và đau. Đầu tiên sữa loãng  có màu hồng do xuất huyết nhẹ và sau đó có lẫn các cục sữa vón và dịch mủ màu vàng nhạt.

d. Viêm vú có máu: biểu hiện đặc trưng là các tổ chức của tuyến tiết sữa bị xuất huyết và tụ huyết. Bệnh thường ở thể cấp tính: bò sốt cao, kém ăn, mệt mỏi, bầu vú sưng to có những đám tụ huyết. Lượng sữa giảm nhanh có khi ngừng tiết sữa. Sữa loãng có màu hồng hoặc đôi khi đỏ như máu do xuất huyết. Bò có thể nhiễm trùng huyết và chết sau 7-9 ngày.

  • Thể tiềm ẩn :

Bệnh viêm vú thể tiềm ẩn rất phổ biến và gây những thiệt hại kinh tế rất lớn vì nó làm giảm  sản lượng sữa và chất lượng sữa.  Bệnh này nguy hiểm ở chỗ là nó duy trì mầm bệnh, lây lan cho những bò khác  mà người chăn nuôi vẫn không biết. Bò ít có triệu chứng bên ngoài, nhưng thường thì kém ăn, thỉnh thoảng sữa bị tủa và không có biểu hiện triệu chứng ở bầu vú.

Biện pháp chẩn đoán  bệnh viêm vú tiềm ẩn  là dựa vào dấu hiệu của sữa và xét nghiệm sữa để phân lập vi trùng gây bệnh.Khi bán sữa, mà chất lượng sữa tủa hoặc độ nhiểm vi sinh cao thì nên nghi ngờ là bệnh viêm vú. Khi phát hiện bệnh cần báo cho cán bộ thú y để có những biện pháp điều trị thích hợp.

 

2.2. Các bệnh viêm đường sinh dục

a. Bệnh viêm buồng trứng

 

Bệnh viêm buồng trứng là do kế phát của bệnh viêm tử cung, viêm ống dẫn trứng hoặc viêm phúc mạc. Những vi khuẩn gây viêm thường gặp là tụ cầu khuẩn, liên cầu khuẩn, E.coli……

Triệu chứng dễ thấy là bò không động dục. Buồng trứng bị viêm sưng, có thể có mủ. Ở giai đoạn đầu, bò sẽ rất đau đớn khi thăm khám buồng trứng. Giai đọan tiếp theo, buồng trứng bị “bã đậu” và canxi hóa chỗ viêm. Nếu chỉ viêm một bên buồng trứng thì bò vẫn có  chu kỳ động dục và phối giống được nhưng tỷ lệ thụ thai thấp .Khi bò bệnh (không thấy động dục ) thì cần báo thú y đến khám và điều trị.

b. Bệnh viêm tử cung

 

Bệnh do nhiễm khuẩn khi gieo tinh nhân tạo hoặc do bò đực bị viêm cơ quan sinh dục. Bệnh viêm tử cung còn do kế phát của bệnh viêm âm đạo và viêm phúc mạc. Khi các vi khuẩn xâm nhập vào tử cung, phát triển nhanh và gây viêm xung huyết, có mủ , gây tróc niêm mạc, xuất huyết. Trong trường hợp nặng có thể thủng tử cung.

Khi mắc bệnh, bò  luôn mệt mỏi, ăn ít, sốt cao, đau vùng hông (bò luôn luôn quay đầu lại phía sau, đi lại bồn chồn). Vài ngày sau, âm hộ chảy dịch nhầy tanh, có lẫn máu, mủ. Thông thường khi bò mắc bệnh viêm tử cung thì thường mắc bệnh viêm âm đạo và ngược lại.Khi bò bệnh thì báo cho cán bộ thú y đến khám và điều trị.

c. Bệnh viêm âm đạo

 

Nguyên nhân gây bệnh cũng giống như bệnh viêm tử cung và thường  hai bệnh này xảy ra cùng lúc. Vi khuẩn gây bệnh xâm nhập vào âm đạo và phát triển trên niêm mạc âm đạo và gây viêm. Bò có triệu chứng giống như viêm tử cung. Tuy nhiên khi dùng kềm mỏ vịt để khám thì thấy những đám tụ huyết, xuất huyết, loét …Khi bò bệnh thì báo cho cán bộ thú y đến khám và điều trị.

d. Sót nhau

 

Sau khi đẻ, nhau thai sẽ được tống ra trong vòng 8-12giờ. Nếu nhau không ra sau 18 giờ, ta gọi là sót nhau. Nguyên nhân của hiện tượng sót nhau là do bất thường của tử cung; bò gầy yếu, nuôi dưỡng kém nên cổ tử cung không đẩy nhau ra,sinh đôi…… Thông thường, bò sót nhau sẽ ăn kém, sốt ,nhưng đôi khi không có biểu hiện gì, vẫn ăn bình thường. Tỉ lệ sót nhau thường chiếm khỏang 5-15 % số bò sinh sản trong đàn, nếu tỉ lệ  này lớn hơn thì vấn đề nuôi dưỡng chăm sóc đàn bò cái sinh sản chưa tốt.

Khi bò sót nhau, cần gọi cán bộ thú y đến xử ly,ù không tự tiện xử lý sẽ gây nên những tổn thương trên tử cung và từ đó ảnh hưởng đến sự sinh sản của bò sau này ( giảm tỉ lệ thụ thai).

2.3. Các rối loạn sinh sản
2.3.1. Vô sinh

Bò cái đến tuổi thành thục mà không thấy động dục hoặc không thể phối giống; hoặc có động dục, phối giống đúng thời điểm nhưng không thụ thai. Đối với một số nước có ngành chăn nuôi bò sữa phát triển,  tỉ lệ bò vô sinh (hội chứng nâng sổi) thường chiếm từ 3-5 % số bò cái sinh sản.

Nguyên nhân thường là do bộ máy sinh dục phát triển không bình thường, bệnh ở bộ máy sinh dục, hoặc do nuôi dưỡng chăm sóc không tốt, bò mắc bệnh

Nếu tình trạng này xảy ra riêng lẻ, chỉ ở một số cá thể thì chủ yếu là do bất thường ở bộ máy sinh dục. Còn nếu xảy ra trên 50 % số bò cái sinh sản trong trại, thì phải nghĩ đến yếu tố chăm sóc, nuôi dưỡng, chuồng trại hoặc bệnh truyền nhiễm. Chẳng hạn, người nhận thấy khẩu phần ăn thiếu photpho,selenium hoặc đồng sẽ gây nên hiện tượng nâng sổi ở bò cái.

2.3.2. Trạng thái ấu trĩ (thiểu năng sinh dục)

Bò cái đến tuổi thành thục về tính, nhưng ngoại hình vẫn như bê con, bộ phận sinh dục phát triển không hòan tòan, không sinh đẻ được. Kiểm tra thấy bộ phận sinh dục phát triển không đầy đủ như  tử cung nhỏ, buồng trứng không phát triển hoặc âm hộ , âm đạo bé không phối giống được. Bệnh này gây ra do nguyên nhân nuôi dưỡng chăm sóc kém hoặc  bởi rối loạn nội tiết tố  có ảnh hưởng đến sự phát triển của cơ thể và đặc biệt là các cơ quan sinh dục. Ta có thể áp dụng 1 số biện pháp để điều trị bệnh này nhưng thường thì tỉ lệ bò trở lại sinh đẻ chỉ đạt 10%. Đối với bò tơ hậu bị nên loại thải.

 
2.3.3. Hiện tượng Free-Martin (bò nửa cái nửa đực)

Bò cái đến tuổi thành thục về tính, nhưng không động dục, âm hộ nhỏ, âm đạo ngắn và hẹp, không có cổ tử cung hoặc chỉ là một lỗ nhỏ. Bầu vú không phát triển, không có tuyến vú chỉ có các tuyến mỡ, không có lỗ tiết sữa. Hiện tượng này thường thấy ở bê đẻ sinh đôi một đực, một cái. Trong giai đọan bào thai, tuyến sinh dục của thai đực phát triển sớm hơn và các kích thích tố của tuyến sinh dục đực (phát triển sớm hơn) tác động tới  thai cái, làm ức chế cơ quan sinh dục cái phát triển. Bò bị hiện tượng này không chữa trị được và phải loại thải. 

2.3.4. Chai  và thoái  hóa buồng trứng

Tổ chức tế bào của buồng trứng bị thoái hóa , teo lại, bị các tổ chức liên kết tăng sinh thay thế. Nguyên nhân  do viêm buồng trứng mà không phát hiện được và không điều trị được . Ngoài  ra, cũng có thể do nuôi dưỡng chăm sóc kém.Khi chẩn đoán  qua trực tràng sẽ thấy một phần hoặc toàn  bộ buồøng trứng bị chai cứng, mặt buồng trứng không còn trơn tru mà lồi lõm, thể tích teo nhỏ.Biện pháp điều trị chủ yếu là cải thiện chế độ nuôi dưỡng chăm sóc; sử dụng các kích thích tố sinh dục và bổ sung các vitamin  A, D, E , giúp cho việc phục hồi cơ năng của buồng trứng. Tốt nhất nên loại thải các bò này.

2.3.5. Buồng trứng bị teo và giảm cơ năng

Nguyên nhân buồng trứng bị teo và giảm cơ năng chủ yếu là do nuôi dưỡng chăm sóc kém, già yếu. Ngoài ra, người ta cho rằng sự giao phối cận huyết cũng là nguyên nhân của việc teo buồng trứng.

Triệu chứng đặc thù là chu kỳ động đực kéo dài, biểu hiện động đực kém hoặc có động đực nhưng không rụng trứng. Chẩn đoán qua trực tràng thấy hình dạng và kích thước buồng trứng không thay đổi theo chu kỳ động dục ( kiểm tra nhiều lần nhưng thấy hình dạng và kích thước không thay đổi).Biện pháp điều trị chủ yếu là dựa vào việc cải thiện chế độ nuôi dưỡng chăm sóc. Bổ sung vitamin  A, D, E ,thả bò cái chung với bò đực để kích thích phục hồi khả năng động đực. Nếu bò đã sinh sản mà bị viêm, teo buồng trứng thì nên loại  thải.

3.3.6. U nang buồng trứng

Nguyên nhân của u nang buồng trứng là do nuôi dưỡng chăm sóc kém, thức ăn xấu, rối loạn nội tiết tố, hoặc bò mắc các bệnh truyền nhiễm.

Biểu hiện của bò bị u nang buồng trứng là bò có biểu hiện động dục mãïnh liệt, kéo dài và không theo chu kỳ nhất định. Chẩn đoán qua trực tràng thấy có một số u nang chứa dịch trên buồng trứng, nổi trên mặt buồng trứng. Điều trị chủ yếu là cải thiện chế độ nuôi dưỡng chăm sóc, chăn thả và vận động phù hợp, kết hợp với việc sử dụng các kích thích tố sinh dục.

Khi bò bị các bệnh rối loạn về sinh sản, tốt nhất là nên nhờ  tư vấn của  cán bộ thú y để có biện pháp điều trị phù hợp

 

2.4. Các bệnh do dinh dưỡng
2.4.1. Bệnh bại liệt trước và  sau khi sinh

Bệnh  xảy ra ở bò cái  khi đẻ do giảm hàm lượng can xi trong máu . Thường xảy ra trên các bò cao sản.  Nguyên nhân là do không cung cấp đủ can xi trong khẩu phần  hoặc  bò không hấp thu được lượng can xi cần thiết cho cơ thể.  Muốn ngăn ngừa cần bổ sung đá liếm để cung cấp đầy đủ các chất khoáng cho bò sữa. Bò nuôi nhốt cần chú ý bổ sung vitamin D.

 
2.4.2. Bệnh chướng hơi

Đây là bệnh phổ biến ở bò sữa , xẩy ra khi bò ăn các loại thức ăn dễ lên men, cỏ non hoặc khi thay đổi đột ngột từ thức ăn khô sang thức ăn tươi … Chướng hơi thường xuyên cũng là triệu chứng của một số bệnh truyền nhiễm hoặc nhiễm độc thức ăn.  Khi mắc bệnh, bò ngừng gặm cỏ, cong lưng , thường xuyên quay đầu nhìn về phía bụng. Bụng chướng to, bò khó thở (do dạ cỏ chướng lên chèn ép vào cơ quan hô hấp ). Khi bò bị chướng hơi, cần nhanh chóng làm giảm quá trình sinh hơi và tạo  khí (cho bò uống nước gừng tỏi, dầu ăn…), tạo điều kiện cho bò ợ hơi ra ngoài ( kê đầu bò cao lên, dùng rơm chà sát  mạnh vùng  dạ cỏ, hoặc đưa ống chọc vào vùng thượng vị để hơi thoát ra ). Trong trường hợp quá cấp, phải  yêu cầu cán bộ thú y  chọc “tro ca” để thoát hơi nhanh.

 
2.4.3. Bệnh do độc chất từ thức ăn.
Một số loại thức ăn có chứa độc chất cần phải được quan tâm để tránh          gây ngộ độc cho bò sữa .

a. Nhóm Cianglucosid : khi thủy phân glucosid này sẽ sinh ra acid cianhydric (HCN). Acid này khi vào cơ thể bò sẽ liên kết với hemoglobin , gây ức chế quá trình vận chuyển oxy ,làm bò ngạt thở và chết rất nhanh  khi ăn phải lượng lớn. Khoai mì có chứa linamarin , Cao lương và cỏ Xudan có chứa durrin là loại chất độc thực vật  thuộc dạng này.

b. Nhóm glycoside cải dầu : đặc biệt là các nhóm thioglycoside. Các chất này có thể gây tình trạng bướu cổ hoặc hiện tượng vỡ hồng cầu (hemolisis) nghiêm trọng . Khi bò ăn nhiều thức ăn có chứa  các chất này  sẽ làm cho nước tiểu của bò có màu đỏ (do hiện tượng vỡ hồng cầu). Bắp cải có chứa brasiconapin, phần xanh của vỏ khoai tây và mầm củ khoai tây có chứa nhiều solanin (chất này cũng có thể xếp  vào nhóm alkaloide) là thực vật có chứa chất độc thuộc dạng này.

c.Các  acid amin bất thường :
  • Mimosin có nhiều  trong cây bình linh, khi bò ăn nhiều sẽ gây bướu cổ.
  • Gossipol có nhiều trong khô dầu bông vải .Chất này  gây ức chế sinh trưởng . Ở bò , các vi sinh vật trong dạ cỏ có thể phân hủy chất này, nên bò có thể sử dụng tốt khô dầu bông vải  . Nhưng khi cho ăn nhiều, một phần khô dầu đi qua dạ cỏ, và một phần gossipol được hấp thu vào máu , qua màng thai gây hại cho bào thai. Vì vậy, đối với bò mang thai nên hạn chế sử dụng khô dầu bông vải.

d. Các loại nấm mốc : Các loại thức ăn nếu không được bảo quản tốt sẽ phát sinh nấm mốc , và một số loại nấm mốc gây hại cho bò như  giảm khả năng đề kháng, gan thoái hóa, sẩy thai, giảm độ ngon miệng …

e. Độc chất từ thuốc trừ sâu, thuốc diệt  cỏ : Khi cho bò ăn cỏ  cắt ở những vùng vừa mới phun thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ hoặc uống nước có nhiễm độc chất này thì bò sẽ bị ngộ độc. Khi ngộ độc, bò sẽ có triệu chứng như không tự chủ (đi đứng xiêu vẹo, liệt), thở nhanh, tim dập nhanh, loạn nhịp tim và ngừng hô hấp. Trong trường hợp bò  nhiễm độc từ từ thì khó phát hiện.  Tốt nhất là phải tự trồng cỏ hoặc chỉ cho bò ăn cỏ khi biết chính xác là không bị nhiễm độc ( do mình tự cắt )

2.4.4. Bệnh giun sán của bò và bê

Bò  thường mắc bệnh giun sán, mà nhiễm cao nhất là sán lá gan (70% trường hợp), giun xoăn dạ múi khế. Bê non thường nhiễm giun xoăn, ngoài ra còn có giun đũa, giun kết hạt v.v…Giun không những hút hết chất dinh dưỡng mà còn tiết ra độc tố gây độc cho cơ thể bò, bê. Bệnh giun sán không làm chết bò nhưng nếu kéo dài bò bị kiệt sức, gầy yếu dể bị các bệnh khác tấn công.

2.5.Các bệnh  thường xảy ra trên bê .

2.5.1. Rối loạn tiêu hoá do ăn quá nhiều sữa

 

Cho bê uống (bú) sữa quá nhiều hoặc quá nhanh sẽ làm cho bê nôn ọe hoặc trào sữa ra khỏi dạ múi khế. Lượng sữa không tiêu hóa này sẽ xuống thẳng ruột non hoặc dạ cỏ – dạ tổ ong là nơi không thích hợp cho sự tiêu hóa sữa.

Khi gặp trường hợp này , cần can thiệp theo các bước sau  :
1.      Kiểm tra và điều chỉnh  lại điều kiện vệ sinh ăn uống.
2.      Luôn cung cấp đầy đủ nước uống sạch trong máng uống
3.      Giảm từ 1/3 đến 1/2  lượng sữa so với lượng sữa đã cung cấp hằng ngày trước đó
4.      Cho ăn từng lượng nhỏ nhiều lần trong ngày
5.      Cân bê để kiểm tra thể trọng
6.      Khi tình hình được cải thiện, có thể tăng dần lượng sữa để đạt theo lượng sữa như quy trình đã khuyến cáo
7.      Nếu sau khi can thiệp bước (1) đến  (4) mà không thấy tiến triển tốt, cần  báo cán bộ thú y đến can thiệp .
 

 

2.5.2. Tiêu chảy ở bê con

 

Có nhiều loại tiêu chảy xảy ra trên bê như  : tiêu chảy phân trắng, tiêu chảy ở bê con, tiêu chảy do nhiễm trùng và tiêu chảy vào 3 ngày tuổi kết hợp hoặc không kết hợp với viêm phổi . Có nhiều nguyên nhân gây ra tiêu chảy và đôi khi có sự kết hợp của nhiều nguyên nhân, nhiều yếu tố chưa được tính  đến, bao gồm cả virút, vi khuẩn ( đáng chú ý là nhóm coliform), do bò mẹ thiếu vitamin A, do thiếu sữa đầu, bê bị nhiễm ký sinh trùng…..

Loại tiêu chảy cấp rất nguy hiểm, thường  gây chết bê khi tiêu chảy xuất hiện trong vòng 72 giờ sau khi sanh: Bê rất lạnh, yếu ớt như sắp chết, đôi khi bê chết trước khi tiêu chảy.

Khi bê bị tiêu chảy, trong ruột non của bê ,lượng dịch ruột non gia tăng do có sự gia tăng phân tiết từ nội mạc ruột non. Đồng thời sự hấp thu chất dinh dưỡng giảm xuống. Vi khuẩn phát triển nhanh chóng. Không còn có sự vận động co thắt của thành ruột (mất nhu động ruột) . Tất cả những tình huống này gây ra sự mất dịch trong cơ thể bê trầm trọng rồi dẫn tới mắt hõm sâu, giảm thể tích huyết tương, thân nhiệt hạ, bê thường xuyên run rẩy rồiø chết.

Các biện pháp nhanh chóng cần được áp dụng là , ngăn ngừa và chống lại sự xâm nhiễm của vi khuẩn , cung cấp lượng dịch thay thế và muối khoáng cho cơ thể gia súc. Chuẩn bị ngay một dung dịch bao gồm một muỗng muối ăn, nửa muỗng bicarbonate, 120 g đường glucose (hoặc đường ăn) và 2 lít nước ấm đã đun sôi. Cho thêm kháng sinh và (hoặc) sulfamide theo như sự chỉ dẫn của cán bộ thú y. Luôn giữ cho bê khô sạch, ấm.

Một số trường hợp tiêu chảy ở bê  xảy ra trên diện rộng làø do lây nhiễm và thường kết hợp với viêm phổi, mùi phân rất hôi thối. Nếu bê sống sót thì thường hay bị viêm tai giữa, viêm rốn hoặc viêm khớp. Sau đo,ù bê sống sót thường có thể trạng rất thê thảm: bụng ỏng, còi cọc, lông xác xơ và đờ đẫn. Loại bệnh  tiêu chảy  này  được chận đứng khi cho bò đẻ trên đồng cỏ hoặc  khi nuôi dưỡng bê bằng cách tách mẹ ngay sau khi đẻ. Điều đó chứng  tỏ rằng,  tác động của môi trường lây nhiễm được xem như là nguồn lây nhiễm chính.

Để phòng ngừa  tiêu chảy, cần giữ  vệ sinh chuồng trại , bêâ sơ sinh phải được uống sữa đầu trong vòng nửa giờ ngay sau khi đẻ.  Đây là yếu tố hết sức quan trọng giúp bê đề kháng với bệnh.

2.5.3. Bệnh thương hàn

 

Nguồn lây nhiễm cho bê con có thể từ các bò khỏe mạnh mang mầm bệnh  trong đàn. Bệnh thương hàn làm cho bê sốt, tiêu chảy: ban đầu là nước rồi sau đó phân có dạng sền sệt màu vàng lẫn với dịch nhầy. Thông thường xuất hiện ở bê từ 10 đến 14 ngày tuổi với triệu chứng đặc trưng là bê suy nhược và mất sức. Điều trị bằng  kháng sinh hoặc thuốc uống dạng sulfamide  thường không thành công. Chỉ có phương sách phòng ngừa là tốt hơn cả. Các xét nghiệm thú chết , phân lập vi trùng và khảo sát kháng sinh đồ ở phòng thí nghiệm sẽ cho phương cách điều trị hữu hiệu.Một số loài vi khuẩn gây thương hàn từ bò có thể lây sang người qua uống sữa bị nhiễm phân.

2.5.4. Bệnh cầu trùng

 

Bê vào khỏang 3 tuần đến 6 tháng tuổi thường nhiễm bệnh này. Tiêu chảy với phân có máu và dịch nhầy, bê bết phân, căng thẳng, lưng cong vòm, lông xù xì, rất yếu sức và mất nước là những triệu chứng của bệnh cầu trùng. Các xét nghiệm từ phòng thí nghiệm sẽ cho thấy có sự hiện diện của ký sinh trùng. Thuốc dạng sulfamide  có hiệu lực khi điều trị. Để phòng ngừa, ta nên tránh nuôi nhốt đông và để chuồng quá chật chội. Di chuyển chuồng bê ra khỏi khu vực lây nhiễm. Gia súc nhiễm bệnh không nên đưa về nơi ở cũ ít nhất 6 tháng. Tiêu độc chuồng trại , dụng cụ thú y.

2.5.5. Bệnh bạch hầu

 

Sốt, sưng dọc theo bờ trên của hàm răng trên, sưng má, lưỡi, thanh quản, rốn, có mùi hôi thối và sự hoại  tử gần giống với dạng thối móng là các triệu chứng dễ  thấy ở bệnh bạch hầu. Thuốc dạng sulfamide có hiệu lực. Để phòng ngừa, ta nên sử dụng riêng các dụng cụ cho bê ăn (xô sữa) và thường xuyên sát trùng chuồng trại để kiểm soát  khống chế sự lây lan.

2.5.6. Viêm rốn

 

Mặc dù chúng ta đã sát trùng rốn ngay sau khi bê  sanh ra nhưng điều đó cũng không thể phòng ngừa hết được sự  viêm rốn. Lý do là sự viêm nhiễm đã hiện diện rất sớm! Viêm nhiễm rốn thường thấy ở trường hợp bê bị tiêu chảy phân trắng hoặc bạch hầu, tiếp nối với sự tấn công của các tác nhân gây bệnh trong môi trường mất vệ sinh, khi bò mẹ bị sót nhau. Nên Nên  chuẩn bị  nơi bò đẻ sạch sẽ, có vật liệu lót chuồng tốt hoặc trên đồng cỏ sạch để đề phòng bê bị viêm rốn . Điều trị bao gồm việc sử dụng không hạn chế các lọai kháng sinh (tiêm chích theo liều quy định) như trong trường hợp bê tiêu chảy. Cần chú ý ngăn ngừa hiện tượng bê bú vào rốn của nhau.

2.5.7. Bệnh viêm phổi ở bê (Bệnh cúm)

Bệnh viêm phổi ở bê có thể xảy ra từ lúc 2 tuần tuổi, nhưng thông thường là từ 2 đến 6 tháng tuổi. Bệnh thường do virút nhưng luôn kèm theo các thứ phát do nhiễm khuẩn sau đó. Bê yếu ớt vì không được cho ăn sữa đầu hoặc không nuôi dưỡng thích hợp và trong các tháng đầu rất dễ bị cúm. Nền chuồng ẩm ướt, nuôi nhốt chật chội, không thông thoáng , bị gió lùa, ký sinh trùng hoặc bệnh tiêu chảy là những yếu tố góp phần làm phát bệnh cúm.Bê sốt, thở hắt, ho khan đứt quãng, miệng có màng nhầy khô, dịch mũi chảy ra là những triẹu chứng thông thường của cúm. Tiêu chảy đi trước một bước hoặc kết hợp với các triệu chứng đã đề cập trước đó. Tỷ lệ chết rất cao nếu như không có biện pháp điều trị thích hợp.

Bệnh này  do virus gây ra nên không có thuốc đặc trị. Điều trị bao gồm kết hợp các loại kháng sinh và thuốc sulfamide cùng với chăm sóc nuôi dưỡng chu đáo ( điều trị với penicilin đơn lẻ không cho hiệu quả cao) để đề phòng phụ nhiễm và nâng cao sức đề kháng.Cách ly bê, giữ cho bê luôn ấm, chuồng thông thóang, vật liêu lót chuồng khô sạch, ăn thực phẩm hỗn hợp nhẹ và uống nước ấm.Môi trường vệ sinh tốt và

Nguồn: Dairyvietnam
Ý kiến của bạn
Tên của bạn * :
E-mail * :
Tiêu đề * :
Nội dung * (Bạn vui lòng gõ tiếng việt có dấu):
 
Mã bảo mật * :   
   
Bài viết khác