Các tỉnh phát triển ngành sữa

Chương trình Phát triển chăn nuôi bò sữa trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2011 - 2015 - P1

Ban hành kèm theo Quyết định số 4320/QĐ-UBND ngày 12 tháng 9 năm 2011 của Ủy ban nhân dân thành phố)

 

Phần I

 

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN BÒ SỮA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH GIAI ĐOẠN 2006-2010

I. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN ĐÀN BÒ SỮA TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH GIAI ĐOẠN 2006 - 2010

Thực hiện Quyết định số 119/2006/QĐ-UBND, ngày 03 tháng 8 năm 2006 của Ủy ban nhân dân thành phố về phê duyệt Chương trình mục tiêu phát triển bò sữa trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2006 - 2010, ngành nông nghiệp đã chủ động phối hợp với Ủy ban nhân dân các quận, huyện và các sở, ngành có liên quan tập trung chỉ đạo, đề xuất kịp thời các
giải pháp, giúp cho người chăn nuôi bò sữa yên tâm sản xuất, tiếp tục phát triển ổn định.

1. Kết quả thực hiện Chương trình mục tiêu phát triển đàn bò sữa trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2006 - 2010:

1.1. Tình hình phát triển đàn bò sữa trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2006 - 2010:

Đẩy mạnh chương trình bình tuyển giống, gieo tinh bò sữa cao sản và áp dụng tiến bộ kỹ thuật về chăm sóc, nuôi dưỡng, chuồng trại, sau 5 năm thực hiện Chương trình, số lượng và sản lượng sữa của đàn bò sữa thành phố không ngừng tăng lên:

- Tổng đàn bò sữa năm 2010 là 79.800 con (tăng bình quân 8,34%/năm), trong đó đàn cái vắt sữa là 41.057 con (tăng bình quân 4,53%/năm). Năng suất sữa đạt 5.787 kg/con/năm năm 2010 (tăng bình quân 6,13%/năm).

- Tổng sản lượng sữa hàng hóa giai đoạn 2006 - 2010 là 978.876 tấn, với tổng giá trị là 6.630 tỷ đồng, góp phần nâng tỷ lệ tự cung ứng nguyên liệu trong nước lên 24,7% (tăng 25,44% so với giai đoạn 2001 - 2005 là 19,69%), giảm gần 30.500 tấn sữa bột nhập khẩu, tương đương với giá trị là 2.030 tỷ đồng.

- Chăn nuôi bò sữa dịch chuyển về các huyện ngoại thành do tốc độ đô thị hóa, tập trung tại huyện Củ Chi. Từng bước thay đổi phương thức chăm sóc, nuôi dưỡng, cải tiến chuồng trại, cơ giới hóa trong chăn nuôi bò sữa và chuyển hướng chăn nuôi tập trung, đầu tư đồng bộ, với quy mô bình quân đàn bò sữa tăng dần lên 9,13 con/hộ năm 2010 (tăng bình quân 8,76%), trong đó số hộ chăn nuôi dưới 5 con/hộ chỉ còn chiếm 24,97% (giảm bình quân 8,86%/năm) và quy mô trên 100 con/hộ tăng lên 16 hộ năm 2010 (tăng bình quân 38,51%/năm).

Thành phố Hồ Chí Minh vẫn luôn dẫn đầu là trung tâm cung cấp con giống bò sữa cho các tỉnh, thành trong cả nước. Hàng năm, thành phố Hồ Chí Minh cung cấp bình quân 5.000 - 5.500 con giống hàng hóa cho thị trường thành phố và các tỉnh.

Bên cạnh đó, thực hiện chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã phối hợp với Ủy ban nhân dân các quận, huyện khuyến khích người dân tận dụng nguồn đất trống và mạnh dạn chuyển diện tích trồng lúa kém hiệu quả sang trồng cỏ phục vụ cho đàn bò. Diện tích trồng cỏ tăng bình quân 15,32%/năm, từ 2.173 ha năm 2006 nâng lên 3.720 ha năm 2010, năng suất bình quân 230 tấn/ha. Sản lượng cỏ cung cấp ước đạt 750.000 - 800.000 tấn/năm.

Hỗ trợ vay vốn theo Quyết định số 105/2006/QĐ-UBND ngày 17 tháng 7 năm 2006 của Ủy ban nhân dân thành phố đã giải quyết 1.911 hộ chăn nuôi bò sữa, tổng đàn 6.570 con, với vốn đầu tư 226.917 triệu đồng, tổng số vốn vay hỗ trợ là 114.186 triệu đồng.

1.2. Công tác quản lý giống bò sữa:

Thường xuyên khuyến cáo người dân tái cấu trúc đàn bò sữa, mạnh dạn loại thải, chọn lọc thay đàn, giữ lại những con có năng suất cao. Tổ chức thực hiện bình tuyển, lập lý lịch để thiết lập hệ thống quản lý giống thống nhất từ nông hộ đến cơ quan quản lý giống; đồng thời thống nhất sử dụng chung mã số đánh dấu trên đàn bò sữa cho công tác quản lý giống và quản lý sức khỏe, dịch tễ… Đến cuối năm 2010, đã tổ chức giám định bình tuyển 67.021 con, riêng giai đoạn 2006 - 2010 đã bình tuyển được 32.544 con, trong đó 80% bò sữa đạt chuẩn đặc cấp theo tiêu chuẩn của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; cơ cấu đàn bò cái sinh sản là 61,13% (tăng 9,19% so với năm 2006 là 51,94%), trong đó tỷ lệ bò sinh sản trên 4 lứa đẻ chỉ chiếm 6,62%, tỷ lệ cái vắt sữa là 46,34%; tuổi phối giống lần đầu là 486 ngày (giảm 40 ngày so với năm 2006); hệ số phối bình quân là 3,56 lần/con đậu thai (giảm 0,68 lần phối so với năm 2006); khoảng cách 2 lứa đẻ là 444 ngày (giảm 46 ngày so với năm 2006); tỷ lệ bò chậm sinh là 6,56%; trọng lượng bê sơ sinh 32 - 34kg; trọng lượng bê 12 tháng tuổi đạt 216 kg - 222 kg.

Ba đơn vị cung cấp tinh cho đàn bò sữa: Xí nghiệp truyền giống gia súc Trung ương, Công ty TNHH Minh Đăng, Công ty TNHH A&A cung cấp
các nguồn tinh từ Trung tâm Moncada (Ba Vì, Hà Nội), New Zealand,
Mỹ, Canada. Ngoài ra, các công ty thu mua sữa (Công ty Friesland Campina
Việt Nam, Công ty Vinamilk…) cũng nhập một số dòng tinh đực giống có nguồn gốc tại Hà Lan về gieo cho đàn bò của những hộ dân giao sữa cho công ty. Trong giai đoạn 2006 - 2010, các đơn vị kinh doanh đã cung cấp 764.954 liều tinh bò sữa, trong đó có 28.648 liều tinh giống bò sữa cao sản nhiệt đới của Israel năng suất trên 13.000 lít sữa/chu kỳ.

Từ tháng 11 năm 2006, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố đã nhập và triển khai gieo tinh giống bò sữa nhiệt đới của Israel có năng suất lứa 1 của con mẹ từ 12.500 - 15.000 kg/chu kỳ (305 ngày) cho 15.801 con, trong đó có 6.970 con đậu thai (tỷ lệ 44,04%), có 6.357 con sinh ra, trong đó có 2.800 con cái (44,05%). Tỷ lệ bê chết sau khi sinh là 3,7%, trọng lượng bê sơ sinh bình quân 32,2 kg, trọng lượng 12 tháng tuổi là 220,68 kg (tương đương với định mức giống gốc của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đối với bò sữa HF là 30 - 35 kg/bê sơ sinh và 200 - 220 kg/bò 12 tháng tuổi). Năng suất sữa bình quân lứa đầu tiên là 19,41 kg/ngày/con.

1.3. Công tác thú y phục vụ bò sữa:

Thực hiện Chương trình thú y phục vụ phát triển bò sữa - kiểm soát dịch bệnh và vệ sinh an toàn thực phẩm từ 2006 - 2010, Chi Cục Thú y đã thực hiện các biện pháp tăng cường công tác quản lý dịch tễ đàn bò sữa và cấp phát sổ theo dõi sức khỏe cá thể bò sữa; tiêm phòng miễn phí bệnh Lở mồm long móng ngay từ đầu năm; lấy mẫu xét nghiệm giám sát dịch tễ và điều trị các bệnh truyền nhiễm, ký sinh trùng; kiểm tra chất lượng và vệ sinh sữa; tập huấn chuyển giao kỹ thuật phát hiện viêm vú tiềm ẩn cho các hộ chăn nuôi.

Kết quả cho thấy tỷ lệ tiêm phòng đạt cao (trên 80%), đảm bảo bảo hộ cho đàn bò sữa thành phố; không có tình trạng lưu hành vi khuẩn lao và Brucella trên đàn bò sữa thành phố; tỷ lệ bệnh Leptospirosis dao động từ
22,85 - 32,02%; tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng đường máu cũng có giảm, nhưng không đáng kể, dao động từ 14,17 - 19,06%; tỷ lệ viêm vú tiềm ẩn trên đàn bò sữa thành phố vẫn cao từ 78,3 - 91,24%, trong đó tỷ lệ 3+, 4+ từ 21,69 - 59,13%.

Trang bị các thiết bị hỗ trợ phục vụ công tác điều trị trên bò sữa. Phối hợp với Tổ chức CEVEO, Trường Đại học Nông Lâm và Đại học Lyon (Pháp) thực hiện chương trình hợp tác thú y, góp phần nâng cao tay nghề cho lực lượng thú y thực hiện công tác điều trị bò sữa tại các địa bàn, đồng thời tăng cường quản lý gắn kết hoạt động tổ bò sữa tại các địa bàn chăn nuôi trọng điểm đã kịp thời hỗ trợ cho người chăn nuôi.

Từ năm 2008, Chi Cục Thú y đã phối hợp với Công ty Vinamilk trong công tác xác nhận hợp đồng thu mua sữa do các điểm trung chuyển đến các trạm thú y quận, huyện; hỗ trợ kiểm soát việc chấp hành tiêm phòng trên đàn bò sữa, kiến thức vệ sinh an toàn thực phẩm sữa, đánh giá tình trạng viêm vú trên đàn bò sữa; chuyển giao kỹ thuật xét nghiệm CMT (California Mastitis Test) và sát trùng bầu vú trước và sau khi vắt sữa; cấp phát 8.000 tờ bướm, 1.500 khay thử hóa chất, hướng dẫn đọc kết quả CMT, cung cấp hơn 3.000 bình nhúng núm vú và hóa chất khử trùng.

Chủ động xây dựng và được Cục Thú y công nhận 10 cơ sở chăn nuôi bò sữa an toàn với bệnh Lở mồm long móng với tổng đàn 4.288 con (2.222 cái vắt sữa).

1.4. Công tác khuyến nông trong chăn nuôi bò sữa:

Phối hợp với Hội Nông dân, Ủy ban nhân dân các quận, huyện tổ chức 282 buổi tập huấn, tọa đàm với các nội dung nâng cao kiến thức và kỹ năng về trồng cỏ cao sản, xây dựng đồng cỏ thâm canh; các biện pháp phòng trị bệnh trên bò sữa, bệnh viêm vú tiềm ẩn; kỹ thuật chế biến thức ăn; thiết kế chuồng trại, quản lý chất thải; ứng dụng cơ giới hóa, ghi chép và quản lý đàn, các biện pháp hạ giá thành trong chăn nuôi; 50 chuyến tham quan, học tập mô hình chăn nuôi bò sữa hiệu quả.

Biên soạn và phát hành tờ bướm, đĩa VCD tuyên truyền, cẩm nang hướng dẫn biện pháp vệ sinh vắt sữa, phòng bệnh viêm vú trên bò sữa; thực hiện 34 chương trình về kỹ thuật chọn giống bò sữa và an toàn chất lượng sữa, chăm sóc và phòng, chống dịch bệnh, kỹ thuật trồng cỏ VA - 06 và ủ chua thức ăn xanh nuôi bò; quay phim tư liệu quảng bá các hộ mô hình điểm chăn nuôi bò sữa. Xây dựng 70 mô hình trình diễn - thực nghiệm về chuồng trại thông thoáng, cơ giới hóa (máy vắt sữa, máy thái cỏ…), hệ thống biogas, xây dựng khẩu phần thức ăn phù hợp theo vùng nguyên liệu và từng giai đoạn cho sữa, phương thức khẩu phần thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh (Total Mixed ration - TMR), nuôi bê đực lai hướng sữa lấy thịt, trồng thử nghiệm giống cỏ voi VA-06. Tính đến cuối năm 2010, từ các mô hình thực nghiệm của các đơn vị trực thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đã nhân rộng trên 110 ha cỏ VA06 tại huyện Củ Chi (75 ha) và Hóc Môn (35 ha); 700 máy vắt sữa; 50 máy băm, thái cỏ; xây dựng 6.110 hầm biogas.

1.5. Phát triển kinh tế tập thể và xúc tiến thương mại trong chăn nuôi bò sữa:

Đã hình thành 7 hợp tác xã chăn nuôi bò sữa (hơn 120 thành viên) và 22 tổ hợp tác chăn nuôi bò sữa (hơn 400 thành viên) tại các quận 12, Thủ Đức, huyện Hóc Môn, Củ Chi, Bình Chánh. Trong đó, Hợp tác xã chăn nuôi bò sữa Tân Thông Hội đã từng bước hoàn chỉnh để cung cấp các dịch vụ chăn nuôi, thú y cho bà con xã viên; được tổ chức SOCODEVI hỗ trợ xây dựng cửa hàng dịch vụ thú y và Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hỗ trợ xây dựng phòng thí nghiệm để phân tích chất lượng sữa, hướng tới ổn định chất lượng sữa cung ứng cho đơn vị thu mua và giảm số mẫu phân tích.

Trung tâm Tư vấn và Hỗ trợ nông nghiệp đã thiết kế website cho Hợp tác xã bò sữa Tiến Thành, Tân Hưng, nhằm hỗ trợ cho hoạt động và quản lý; hỗ trợ thiết kế logo cho Hợp tác xã nông nghiệp Xuân Lộc. Đồng thời phối hợp với Hãng phim Cửu Long phát sóng chương trình truyền hình nông dân hội nhập để giới thiệu về chương trình phát triển bò sữa, công tác quản lý và sử dụng giống (tinh bò sữa), các mô hình sản xuất trang trại chăn nuôi bò sữa của thành phố.

Trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh có 04 công ty hoạt động thu mua sữa: Công ty Cổ phần sữa Việt Nam - Vinamilk, Công ty TNHH Friesland Campina, Công ty TNHH Tân Việt Xuân - Vixumilk, Công ty cổ phần sữa Quốc tế T&H với 97 điểm thu mua và trung chuyển thu mua sữa, đặt tại hầu hết các địa bàn chăn nuôi bò sữa trọng điểm của thành phố, đảm bảo thu mua tất cả sữa cho người chăn nuôi của thành phố. Trong đó, từ tháng 11 năm 2010, Công ty TNHH MTV Bò sữa thành phố đã liên kết với Công ty Cổ phần sữa Quốc tế tổ chức xây dựng nhà máy và thu mua sữa nguyên liệu trên địa bàn thành phố.

Từ năm 2008 đến nay, các công ty thu mua sữa tươi nguyên liệu liên tục thay đổi phương thức đánh giá chất lượng sữa và giá thu mua sữa, nhất là trong năm 2010, nhằm từng bước nâng cao chất lượng sữa tươi thu mua, đáp ứng nhu cầu bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm ngày càng cao của người tiêu dùng và nâng cao thu nhập cho người chăn nuôi bò sữa. Trước yêu cầu này, đòi hỏi người nông dân chăn nuôi bò sữa phải từng bước thay đổi cách chăn nuôi: chăm sóc, nuôi dưỡng, khai thác và giao sữa phù hợp với yêu cầu của nhà thu mua. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã chỉ đạo các đơn vị trực thuộc phối hợp với các địa phương tập trung các biện pháp hỗ trợ nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sữa và đảm bảo thu nhập cho người chăn nuôi.

1.6. Các dự án đã và đang thực hiện:

- Dự án “Xây dựng mô hình ứng dụng công nghệ cao trong chăn nuôi bò sữa quy mô cấp xã” tại xã Tân Thạnh Đông, huyện Củ Chi: được thực hiện từ năm 2006, với tổng kinh phí 25.662 triệu đồng, trong đó ngân sách thành phố đầu tư 1.662 triệu đồng. Dự án đã xây dựng được các mô hình chăn nuôi bò sữa ứng dụng đồng bộ công nghệ cao để chăn nuôi bò sữa, bao gồm tái cơ cấu đàn bò, nâng cao chất lượng đàn giống, loại thải các cá thể có năng suất thấp, có vấn đề về các bệnh sinh sản; nâng cấp chuồng trại thông thóang (quạt gió, hệ thống phun sương, quả cầu thông khí); ứng dụng cơ giới hóa trong sản xuất (máy vắt sữa, máy thái cỏ); trồng sử dụng giống cỏ VA - 06 có năng suất cao, chất lượng dinh dưỡng phù hợp với nhu cầu bò sữa; xây dựng khẩu phần thức ăn hợp lý và thí điểm khẩu phần TMR tại một số hộ. Ngoài ra, dự án đã giúp người chăn nuôi chủ động kiểm tra vệ sinh sữa thông qua việc
chuyển giao phương pháp phát hiện viêm vú tiềm ẩn bằng CMT, vệ sinh bầu vú sau khi vắt sữa bằng dung dịch iodin; định kỳ lấy mẫu kiểm tra các bệnh liên quan đến bò sữa (lao, Brucellosis, Leptospirosis, ký sinh trùng đường máu) và chất lượng sữa (đạm, béo, vật chất khô…). Các mô hình đã đem lại hiệu quả thiết thực cho người chăn nuôi bò sữa, như giảm tình trạng stress nhiệt trên đàn bò sữa, nhất là các tháng cao điểm mùa nắng; hạn chế các chi phí trung gian, cải thiện chất lượng đàn giống tại nông hộ, nâng cao chất lượng và vệ sinh sữa.

- Dự án “Đầu tư trại bò sữa công nghệ cao Israel (DDEF)”: được Chính phủ Việt Nam chấp thuận chủ trương thực hiện tại Công văn số 8013/VPCP-QHQT ngày 20 tháng 11 năm 2008 về việc phê duyệt dự án ODA hỗ trợ kỹ thuật không hoàn lại của Chính phủ Israel; Quyết định số 1263/QĐ-UBND ngày 31 tháng 3 năm 2009 về việc thành lập Ban Chỉ đạo và Ban quản lý điều hành dự án “Trại trình diễn và thực nghiệm chăn nuôi bò sữa công nghệ cao tại thành phố Hồ Chí Minh”; Quyết định số 2203/QĐ-UBND ngày 17 tháng 5 năm 2010 về phê duyệt dự án hỗ trợ kỹ thuật trại trình diễn và thực nghiệm chăn nuôi bò sữa công nghệ cao (DDEF) và Quyết định số 4256/QĐ-UBND ngày 28 tháng 9 năm 2010 về phê duyệt Kế hoạch tổng thể thực hiện dự án trại trình diễn và thực nghiệm chăn nuôi bò sữa công nghệ cao (DDEF). Hiện nay đã tiến hành san lấp mặt bằng; dự kiến xây dựng chuồng trại và vận hành trong năm 2011.

- Chương trình thử nghiệm gieo tinh giống bò sữa cao sản nhiệt đới của Israel, năng suất trên 13.000 lít sữa/chu kỳ: Tháng 11/2006, ngành nông nghiệp thành phố đã nhập 30.000 liều, với tổng kinh phí là 5,64 tỷ đồng (vốn ngân sách: 3,18 tỷ đồng, hộ/trại chăn nuôi: 2,46 tỷ đồng). Kết quả: bê sinh ra có trọng lượng sơ sinh đạt bình quân từ 32,2 kg/con (tương đương trọng lượng bê sơ sinh của các dòng tinh từ Mỹ, Canada,…); lượng sữa bình quân đạt 19 kg/con/ngày, cá biệt có con đạt 25 kg/con/ngày.

- Các công trình nghiên cứu khoa học:

+ Thử nghiệm tạo phôi bò lai Sind giai đoạn plastocyst bằng công nghệ thụ tinh trong ống nghiệm từ nguồn giao tử nội và ngoại nhập - Đại học Khoa học tự nhiên phối hợp với Trung tâm Công nghệ sinh học.

+ Xây dựng đàn bò sữa hạt nhân bằng công nghệ cấy truyền phôi - Trung tâm Quản lý và Kiểm định Giống Cây trồng - Vật nuôi.

+ Nghiên cứu ứng dụng công nghệ sản xuất và cấy truyền phôi, nhằm nhân nhanh giống bò sữa cao sản tại thành phố Hồ Chí Minh - Trung tâm chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật chăn nuôi - Trung tâm Công nghệ sinh học ABC.

+ Đánh giá sự bài thải qua sữa của một số kháng sinh sử dụng trong điều trị bệnh bò sữa và đề xuất giải pháp khai thác sữa hợp lý có hiệu quả tại thành phố - Chi cục Thú y phối hợp với các công ty thu mua sữa.

+ Nghiên cứu ảnh hưởng thành phần thức ăn thô đến năng suất và chất lượng sữa của bò sữa tại thành phố Hồ Chí Minh - Viện Khoa học nông nghiệp Miền Nam.

+ Nghiên cứu các giải pháp cải tiến tiểu khí hậu và dinh dưỡng nhằm nâng cao hiệu quả trong chăn nuôi bò sữa có tỷ lệ máu Holstein Friesian cao (trên ¾ máu HF) nuôi tại thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2005 - 2007 - Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp Miền Nam.

+ Ứng dụng công nghệ thông tin cải thiện điều kiện vệ sinh thú y đàn bò sữa xã Xuân Thới Thượng, Hóc Môn - Chi Cục Thú y

+ Nghiên cứu quy trình phòng và trị một số bệnh trên đàn bò sữa để góp phần tăng nguồn sữa sạch cho nhà máy sữa tại khu vực thành phố Hồ Chí Minh - Đại học Nông Lâm.

+ Khảo nghiệm một số giống cỏ phục vụ chăn nuôi bò sữa thành phố
Hồ Chí Minh giai đoạn 2003 - 2006 - Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

+ Phân tích hiệu quả theo quy mô và đề xuất giải pháp nhân rộng quy mô đàn bò sữa tại nông hộ ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh 2006 - 2008 - Viện Nghiên cứu Kinh tế Phát triển.

+ Nghiên cứu công nghệ chế biến và sử dụng bypass protein cho chăn nuôi bò sữa 2007 - 2009 - Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam.

+ Nghiên cứu cân bằng năng lượng và protein trong khẩu phần
giai đoạn trước và sau đẻ để nâng cao khả năng sinh sản ở bò sữa khu vực thành phố Hồ Chí Minh 2007 - 2009 - Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam.

II. NHẬN XÉT - ĐÁNH GIÁ

1. Những mặt làm được:

Chương trình mục tiêu phát triển bò sữa giai đoạn 2006 - 2010 đã góp phần rất lớn vào thành tích chung của ngành nông nghiệp thành phố, so với các ngành chăn nuôi khác, chăn nuôi bò sữa trong năm qua phát triển khá ổn định, thành phố vẫn là đơn vị cung cấp con giống bò sữa chính cho nhiều địa phương trong cả nước, kể cả khu vực phía Bắc. Đồng thời, sữa tươi sản xuất góp phần cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng, giảm bớt nhập khẩu nguyên liệu sữa và tiết kiệm ngoại tệ.

Các hộ chăn nuôi đã mạnh dạn loại thải các cá thể năng suất kém,
tăng quy mô đàn trên từng hộ chăn nuôi, xây dựng cơ cấu đàn hợp lý, thực hiện các quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng tiên tiến, từng bước áp dụng các giải pháp, tiến bộ khoa học kỹ thuật vào chăn nuôi, từ đó đã dần nâng cao chất lượng đàn bò, kiểm soát ô nhiễm môi trường và định hướng phát triển theo hướng ổn định.

Thực hiện tốt, có hiệu quả công tác quản lý, kiểm định giống; phối giống các dòng tinh cao sản thích hợp với điều kiện nhiệt đới, nhằm tạo ra những thế hệ sau có năng suất, chất lượng tốt. Chủ động tổ chức và nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống dịch bệnh, đảm bảo an toàn dịch tễ cho đàn bò sữa, xây dựng được các cơ sở chăn nuôi bò sữa an toàn dịch bệnh, giảm chi phí điều trị, thuốc thú y, góp phần giảm giá thành, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm.

Phối hợp với các đơn vị thu mua sữa tươi nguyên liệu trong việc tăng giá thu mua sữa phù hợp với chi phí sản xuất; các đơn vị sản xuất hèm bia làm nguyên liệu thức ăn chăn nuôi trong việc quản lý chất lượng và ổn định giá cung cấp cho người chăn nuôi, giúp người chăn nuôi ổn định sản xuất.

Xây dựng và nhân rộng được mô hình chăn nuôi bò sữa với cơ giới hóa trong chăn nuôi (hệ thống máy vắt sữa, hệ thống chuồng 2 tầng máy tạo thông thoáng...) bước đầu mang lại nhiều lợi ích cho người chăn nuôi (năng suất sữa tăng, tỷ lệ nhiễm bệnh giảm, chất lượng sữa được đảm bảo vệ sinh qua sử dụng máy vắt sữa) và xây dựng hệ thống biogas trong các hộ chăn nuôi bò sữa giúp tiết kiệm nhiên liệu trong sinh hoạt gia đình và giảm thiểu ô nhiễm môi trường, hướng đến phát triển bền vững.

2. Tồn tại:

Hiện nay quy mô chăn nuôi nông hộ còn nhỏ, đất trồng cỏ hạn chế, chất lượng cơ giới hóa trong chăn nuôi thấp, chi phí sản xuất cao, nhiều chi phí trung gian, tình trạng ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi chưa được cải thiện.

Một bộ phận người dân vẫn chưa quan tâm đến các biện pháp giảm chi phí sản xuất, vệ sinh sữa…, dẫn đến tình trạng tăng giá thành sản xuất, tỷ lệ viêm vú tiềm ẩn và nhiễm vi sinh trong sữa vẫn cao.

Lực lượng dẫn tinh viên chưa được quản lý chặt chẽ; còn ít các mô hình chăn nuôi bò sữa đồng bộ; phương thức chuyển giao còn mang tính lý thuyết, chưa đủ sức thuyết phục để người dân đưa vào ứng dụng nhằm đạt hiệu quả chăn nuôi.

Giá các loại thức ăn hỗn hợp, thức ăn thô xanh và các loại phụ phế phẩm không ổn định, luôn trong tình trạng tăng cao kể cả chi phí vận chuyển, vật tư chăn nuôi, thuốc thú y.

 

Phần II

 

CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN BÒ SỮA TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH GIAI ĐOẠN 2011 - 2015

I. SỰ CẦN THIẾT VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN BÒ SỮA TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ GIAI ĐOẠN 2011 - 2015

1. Sự cần thiết:

Thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu, phát triển nông nghiệp - nông dân - nông thôn đến năm 2020 theo Quyết định số 10/2009/QĐ-UBND ngày 22 tháng 01 năm 2009 của Ủy ban nhân dân thành phố thực hiện Chương trình hành động số 43-CTr/TU ngày 20 tháng 10 năm 2008 của Thành ủy, theo Nghị quyết số 26-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X; định hướng quy hoạch sản xuất nông nghiệp và phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020, định hướng đến năm 2025.

Góp phần thực hiện các chương trình, chiến lược quốc gia như Chiến lược phát triển chăn nuôi đến năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ; Danh mục
hàng hóa, dịch vụ thực hiện bình ổn giá của Bộ Tài chính, trong đó sữa là
1 trong 14 mặt hàng thuộc diện bình ổn giá; Chiến lược quốc gia dinh dưỡng, nhằm gia tăng và cải thiện về dinh dưỡng đối với người dân để đảm bảo sự phát triển về thể chất và trí tuệ; quy hoạch phát triển ngành công nghiệp
chế biến sữa Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2025 của Bộ Công Thương.

Tiếp tục thực hiện chương trình mục tiêu phát triển bò sữa trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2006 - 2010, nhằm phát huy thế mạnh là đơn vị dẫn đầu về cung cấp đàn giống bò sữa chất lượng cao cho cả nước, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững.

Tăng cường công tác kiểm soát chất lượng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm đối với ngành hàng sữa tại thành phố Hồ Chí Minh.

2. Cơ sở pháp lý:

Quyết định số 10/2008/QĐ-TTg ngày 16 tháng 01 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược phát triển chăn nuôi đến năm 2020; Quyết định số 2194/QĐ-TTg ngày 25 tháng 12 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển giống cây nông, lâm nghiệp, giống vật nuôi và giống thủy sản đến năm 2020.

Quyết định số 3399/QĐ-BCT ngày 28 tháng 6 năm 2010 của Bộ Công Thương phê duyệt Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp chế biến sữa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025;

Quyết định số 5930/QĐ-UBND ngày 28 tháng 12 năm 2009 của Ủy ban nhân dân thành phố về phê duyệt “Quy hoạch sản xuất nông nghiệp phát triển nông thôn thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2025”;

Quyết định số 2011/QĐ-UBND ngày 07 tháng 5 năm 2010 của Ủy ban nhân dân thành phố phê duyệt “Đề án phát triển nông nghiệp đô thị trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2025”;

Quyết định số 3749/QĐ-UBND ngày 24 tháng 8 năm 2010 của Ủy ban nhân dân thành phố về phê duyệt Đề án Xây dựng và Phát triển mô hình Hợp tác xã nông nghiệp - dịch vụ giai đoạn 2010 - 2015 trên địa bàn thành phố
Hồ Chí Minh;

Quyết định số 446/QĐ-UBND ngày 27 tháng 01 năm 2011 của Ủy ban nhân dân thành phố về việc phê duyệt Chương trình ứng dụng và phát triển công nghệ sinh học phục vụ nông nghiệp - nông thôn trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2025;

Quyết định số 13/2011/QĐ-UBND ngày 09 tháng 3 năm 2011 của
Ủy ban nhân dân thành phố phê duyệt Chương trình chuyển dịch cơ cấu
nông nghiệp theo hướng nông nghiệp đô thị trên địa bàn thành phố giai đoạn 2011 - 2015;

Quyết định số 33/2011/QĐ-UBND ngày 28 tháng 5 năm 2011 của
Ủy ban nhân dân thành phố ban hành Quy định về thực hiện các dự án đầu tư thuộc Chương trình kích cầu của thành phố Hồ Chí Minh;

Quyết định số 36/2011/QĐ-UBND ngày 10 tháng 6 năm 2011 của
Ủy ban nhân dân thành phố ban hành Quy định về Chính sách khuyến khích chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng nông nghiệp đô thị trên địa bàn thành phố giai đoạn 2011 – 2015;

Quyết định số 3178/QĐ-UBND ngày 22 tháng 6 năm 2011 của Ủy ban nhân dân thành phố về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020 và định hướng đến
năm 2025;


Nguồn: sonongnghiep.hochiminhcity.gov.vn
Ý kiến của bạn
Tên của bạn * :
E-mail * :
Tiêu đề * :
Nội dung * (Bạn vui lòng gõ tiếng việt có dấu):
 
Mã bảo mật * :   
   
Bài viết khác